Đỗ Thái Nhiên
Một khế ước do hai hay nhiều người thành lập. Khế ước ra đời chưa ráo
mực các người đồng ước đã giải thích khế ước theo nghĩa riêng của mỗi
người. Khế ước kia lập tức từ trần. Nó sẽ chẳng bao giờ được thi hành.
Bản
Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền công bố ngày 10 tháng 12 năm 1948. Lời mở
đầu của tuyên ngôn này được kết thúc bằng câu viết nguyên văn rằng:
“Một
quan niệm chung về tự do và nhân quyền là điều tối quan trọng để thực
hiện trọn vẹn cam kết ấy (cam kết tôn trọng nhân quyền)”.
Sau nhiều thập niên trôi nổi trong thế giới loài người, thay vì được
hiểu theo một quan niệm chung, Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã bị hoặc
cá nhân, hoặc đoàn thể, nhất là giới chức cầm quyền của các quốc gia
giải thích theo nhiều quan niệm riêng. Những quan niệm riêng kia đều có
chung một mục đích: vừa biện minh cho hành động chà đạp nhân quyền, vừa
tránh né nghĩa vụ bảo vệ nhân quyền. Những quan niệm riêng kia xuất phát
từ hai lý luận căn bản sau đây:
1) Một là: Mỗi dân tộc có
một nền văn hoá riêng, mỗi quốc gia cần có quan niệm riêng về nhân quyền
sao cho phù hợp với văn hoá của quốc gia sở tại.
2) Hai là:
Nhân Quyền là sản phẩm tư tưởng của các quốc gia thắng trận trong đệ
nhị thế chiến. Họ là những quốc gia Tây Phương. Vì vậy Tuyên Ngôn Quốc
Tế Nhân Quyền có khuynh hướng đề cao cá nhân chủ nghĩa theo kiểu Âu Mỹ.
Sự thể này gây khó khăn cho công việc điều hành xã hội tại môt số quốc
gia, đặc biệt là các quốc gia vùng Á Châu.